Nguồn gốc từ cà sa

Rate this post

Thứ nhất, cà sa xuất phát từ chữ 𣮫 㲚 thời nhà Hán – Phiên âm từ chữ काषाय (kāṣāya) trong Phạn ngữ. Đến đời nhà Tấn, đạo sĩ Cát Hồng (葛洪, 283 – 343) đã chuyển thành 袈裟 (cà sa) trong vũ trụ Tự Uyển (字 苑) rồi trở thành từ chuẩn mực cho ngày hôm nay.

Thứ hai, cà sa có nguồn gốc từ chữ चीवर (cīvara) trong tiếng Phạn – một từ có nghĩa là ban đầu là vải, về sau dùng để chỉ y phục của các nhà sư phạm. Người Trung Quốc dịch चीवर (cīvara) is y (衣) or pháp y (法衣). Trọng Ba lợi Tam tạngbộ sưu tập kinh điển của Phật giáo Nguyên thủy, cà sa được gọi là y kinh (Pali: cīvara sutta) và y bát (Phạn: pātra- cīvara) – pātra (पात्र) là cái bát (Tăng chi bộtập 5, kinh 182).

Y cà sa xuất phát từ Ấn Độ cổ đại, khởi thủy là những chiếc quần áo vải đi của người chết hoặc rách trong đống rác, các nhà sư phạm lấy, rửa sạch, mặc xong. Loại áo này được gọi là phẩn tảo hoặc bách y… thường được ráp lại từ những mảnh vải hình chữ nhật giống như ruộng, do đó áo cà sa còn được gọi là phúc điền y (áo cánh) và điền tướng y (áo ruộng).

Nhà sư phạm có thể nhận vải nhưng tấm nguyên của phật tử, sau đó phải cắt thành nhiều mảnh và may lại thành áo, do đó cà sa còn gọi là cát bụi y (quần áo cắt rời) và tổ hợp y (làm quần áo từ nhiều mảnh ghép lại).
Cà sa có 3 loại chính (tam y): An đà hội (Phạn: antarvāsa), còn gọi là ngũ y, loại áo lót trong (làm lại từ 5 mảnh vải tái tạo); Ức đa la tăng (uttarāsanga), còn gọi là thất điều y, loại áo che phần trên cơ thể (làm từ vải 7 mảnh) – mặc định lúc thờ, tụng kinh và sám hối trong nhà; Tăng già lê (saṃghāṭī), còn gọi là đại y, chúng tụ thời y – loại trang phục mặc định lúc Pháp hội (thực hiện nghi thức tôn giáo). Ngoài 3 loại trên, còn có thêm các loại phái Tăng kỳ chi và Quyết tu la, gọi chung là “ngũ y” (五 衣).

Theo quy định, cà sa không được vẽ “chính sắc” (xanh, vàng, đỏ, trắng, đen), mà phải “bất chính sắc” để giúp loại bỏ ham muốn mặc định trang phục đẹp. Theo luật, cà sa phải có màu xấu (màu xanh lục, màu bùn đất, màu đỏ hoa mộc lan). Vì thế, cà sa có nghĩa đen là sắc y (áo màu xấu), nhiễm y (áo màu) và ô sắc y (áo màu bẩn)…

N

Sau khi Phật giáo nhập Trung Quốc, cà phê thường có màu đỏ, về sau là màu tri (缁: đen), lam và nâu; đến nhà Đường thì màu đỏ và màu đỏ tía; Thời nhà Minh có lá xanh và màu đỏ nhạt, áo khoác màu đen.

Phật giáo Tây Tạng có cà sa màu đỏ, đính ngọc thạch (srīvatsa) và ốc xà cừ (saṅkha). Cà sa Nhật Bản có màu đen, áo màu vàng, bên ngoài có màu xanh, được gọi là Trực xuyết (Zhiduo) hay Jikitotsu. Những nước theo Phật giáo Nam tông thì có màu cam hoặc màu cam tươi hoặc màu vàng đất (Thái Lan, Sri Lanka); private cà sa Myanmar thì màu đất đỏ, nâu đỏ hoặc nâu.

Ở Việt Nam, chư tăng và chư ni mặc áo màu nâu và vàng mặc định, cư sĩ phật tử thường xuyên áo màu lam khi hành lễ.

Related posts

Leave a Comment